CHÚNG TA ĐƯỢC SINH RA BẰNG LỜI CHÂN THẬT
(Thơ Thánh Giacôbê 1: 16-27)
Trần Mỹ Duyệt
Để hiểu hơn về ý nghĩa của những lời này, tưởng cũng nên biết sơ qua về Tông Đồ Giacôbê trước khi chúng ta đọc và suy ngắm những gì mà ngài đã viết.
Thánh Giacôbê còn được gọi là Giacôbê Cả hay Giacôbê Tiền, là một trong 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Tên Giacôbê Cả hay Giacôbê Tiền của ngài là để phân biệt ngài với một tông đồ khác cũng có tên là Giacôbê. Ông này được gọi là Giacôbê Hậu hay Giacôbê Thứ. Theo Thánh Kinh , ngài là tông đồ thứ hai đã chết, và là tông đồ thứ nhất được phúc tử đạo. Ngài chết sau Giuđa Iscariot, kẻ đã bán Chúa và treo cổ tự tử.
Ngài là con của ông Zebedee và bà Salome, anh của Tông Đồ Gioan. Mẹ của ngài là một người chị của Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu. Như vậy ngài và em ngài là những người anh em họ với Chúa Giêsu. Cả hai anh em đã được Chúa gọi khi đang vá lưới dưới thuyền với cha mình.
Sau khi theo Chúa, ngài cùng với em là Gioan và Phêrô làm thành bộ ba luôn đi bên Chúa, được Chúa cho chứng kiến cảnh Ngài phục sinh Lazaro, cảnh vinh quang Ngài biến hình trên núi Tabor, cũng như được Chúa đem vào vườn Cây Dầu hầu chứng kiến những giây phút hấp hối của Ngài.
Ngài cùng em là người được mẹ mình xin với Chúa cho ngồi hai bên tả hữu trong nước của Chúa. Để đáp lại lời đề nghị ấy, Ngài đã hỏi hai anh em có uống nổi chén mà Ngài sắp uống không, và cả hai đều bằng lòng uống chung chén với Chúa, mặc dù lúc đó các ngài không biết chén ấy là chén gì? Hai anh em ngài còn được cho là “con sấm sét” với lòng nhiệt thành muốn đem lửa trời đốt dân Samaritans vì họ đã từ chối không đón tiếp Chúa Giêsu.
Ngài đã bị chém đầu bằng gươm do lệnh của vua Herod. Như vậy, ngài là tông đồ tử đạo đầu tiên và Gioan em ngài là tông đồ chết cuối cùng. Cả hai đều thỏa lòng với chén mà Chúa trao cho các ngài uống. Và cả hai đều xứng đáng với danh nghĩa tông đồ cao cả, trong nhóm bộ ba luôn luôn được sát cánh bên Chúa.
Hiểu được mối tương quan giữa thánh nhân và Chúa Giêsu, lòng sốt sắng và yêu mến Thầy cũng là Chúa của ngài, và lòng khao khát, cứu rỗi các linh hồn; từ đó, chúng ta mới hiểu rõ ý nghĩa những lời mà ngài đã viết.
Trong trích đoạn thư của ngài chương 1 từ câu 16 đến câu 27, có ít nhất ba điều mà chúng ta cần suy niệm. Đó là : “Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người.” (c 18) Câu này nói lên rằng, chúng ta là những tạo vật vô cùng quí giá, đặc biệt của Thiên Chúa, được Ngài trực tiếp tạo dựng. Sự có mặt của chúng ta trên trái đất là một huyền nhiệm, một ân huệ do lòng thương xót Chúa. Và chúng ta phải sống với danh hiệu và thân phận này.
Tiếp đến, trong thực hành ngài khuyên chúng ta: “Anh em thân mến của tôi, anh em nên biết rằng: mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa.” (c 19-20) Đây là một ứng dụng thực hành vừa có tính cách luân lý, vừa có tính cách tâm lý. Khi viết những lời này, phải chăng Thánh Giacôbê đã nhớ lại lời Thầy dạy: “Vì lòng có đầy mới tràn ra ngoài miệng.” (Mt 12:34) Một người nóng giận rất khó kìm hãm được bản thân. Hành vi nhân tính của họ trong lúc nóng giận bị loại bỏ, và được thay thế bằng hành động theo bản năng. Con người trong điều kiện ấy không còn mang hình ảnh tạo vật được Thiên Chúa sinh ra bằng “Lời Chân Lý” nữa.
Đọc những lời ngài viết, chúng ta có lý để tin rằng trong đời thường Thánh nhân là con người kiệm lời, chín chắn về lời ăn tiếng nói. Chính vì vậy, ở chương ba, ngài đã dùng nhiều hình ảnh và so sánh để nói về cái lưỡi. Ngài gọi cái lưỡi là “bất trị”, không thể kìm hãm, có khả năng phá hoại khủng khiếp. Ngài so sánh nó như bánh lái có thể chuyển hướng con tàu (c 4), như một ngọn lửa nhỏ làm bùng lên một đám cháy lớn. Nó dùng để ca tụng Thiên Chúa, nhưng cũng để xúc phạm đến anh chị em mình là hình ảnh của Ngài (c 9). Về sự dữ do cái lưỡi gây ra, ngài viết: “Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác giữa các phần thân thể chúng ta. Nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hỏa ngục đốt cháy.” (c 6)
Rút ra từ bài học của chính mình, ngài tiếp tục khuyên chúng ta khi nghe và đón nhận lời Thiên Chúa: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.” (c 22) Vì: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão.” ( c 26) Như vậy, theo gương ngài, chúng ta cũng phải đón nhận Lời Chúa với tấm lòng cung kính, miệng đọc tâm suy. Tin vào những gì mình đọc, và sống với những gì mình tin.
Sau cùng là: “Thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này.” (c 27) Nói một cách dễ hiểu, Thánh Giacôbê khuyên chúng ta phải có lòng bác ái, yêu người, và phải biết tự chế, không chỉ ở lời ăn tiếng nói, mà còn phải biết kìm hãm những đam mê, dục vọng bất chính. Nếu chúng ta đã bác ái với người khác, thì bắt buộc chúng ta cũng phải bác ái với mình, bằng cách tránh xa tội lỗi và đến gần với Chúa mỗi ngày một hơn. Bởi vì : “Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta.”
Nghèo, khó khăn, và thử thách là những vấn nạn mà mọi người, mọi gia đình thường gặp phải trong cuộc đời. Quan niệm nhà Phật gọi đời là “bể khổ!” Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta đọc thấy những lời này: “Chúng con, con cháu Evà ở chốn khách đầy kêu đến cùng Bà, chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương”. Tóm lại đã mang kiếp nhân sinh, không ai tránh khỏi cảnh nghèo và cũng ít ai tránh gặp phải những khó khăn, thử thách.
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?